Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Mới cập nhật Giữ lửa cho đời sau.

Thanh Hà cũng như bao làng gốm cổ truyền khác ở Bắc – Trung bộ có địa thế giao thương tiện lợi - vừa gần sông (sông Thu Bồn.

Lư hương. Cuộn dải đất thành hình trụ tròn rồi dùng tay phối hợp con sò (công cụ chuốt gốm). Trước tác động mạnh mẽ của nếp sống thành phố. Thời kì còn lại trong năm du khách đến Thanh Hà đều có thể tận mắt chứng kiến - tham dự vào các công đoạn cho đến khi hoàn chỉnh một sản phẩm gốm đất nung theo phương pháp thủ công truyền thống dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân.

Ngói). Gốm treo trên cây. Dẫn lửa. Bầu. 16 thế hệ sinh sống ở Thanh Hà và hiện có nhiều hậu duệ của các tộc trên là thợ gốm. Thường do đàn bà đảm đương nên được truyền nghề từ mẹ sang con gái.

Nơi cách nay hơn nửa thiên niên niên kỷ là một trọng điểm sản xuất. Đến khi gốm se mặt sẽ khắc hoa văn. Nồi. 100 0 C). XVII. Làng gốm Thanh Hà tạo thành một hệ thống vòng đai làng nghề bao quanh khu phố cổ. Tháng 11 âm lịch) nước sông Thu Bồn dâng cao. Quanh lối đi theo bước chân khách. Đẹp mắt. Khách du lịch theo tour hoặc tự mình có thể đến thăm làng gốm.

Kích thước. Từ thế kỷ XVII. Đồ trang trí kiến trúc (đèn vườn. Phôi gốm sau khi được chuốt tạo dáng xong được đem ra ngoài hong trong bóng râm. Lại kề với cảng thị Hội An nên sớm trở nên một trung tâm sinh sản gốm đất nung lừng danh. Gấp hai đầu con trạch đất lại với nhau. Đa dạng hóa các loại hình sản phẩm và gắn hoạt động nghề nghiệp với du lịch.

Sản phẩm được các lái buôn chuyển vận bằng dụng cụ đường bộ tiêu thụ ở Quảng Nam. Hũ. Nung trong lò ngửa/ lò ga quy mô nhỏ như con thổi. Lò nung ngói. Người thợ ngắt một mẩu đất sét. Các dụng cụ. Thờ cúng (chân đèn. Câu ca dân gian xứ Quảng: “Lửa chi lửa rực sáng lòa Nghề gốm.

Đặc biệt. Dẻo để loại bỏ dần tạp chất. Cho đến đầu thế kỷ XX. Đồ lễ nghi. Nếu có thì chỉ là một - hai đường chỉ khắc chìm song song trên vai sản phẩm hoặc dùng hoa văn khắc vạch hình sóng nước. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây. Cho ra đời những mẻ gốm mới. Sự cắt cử lao động giữa nam – nữ. Có thể nói. Tuổi những năm 1980. Người thợ làm đất phải nhồi.

Đạp đất cho mịn. Sinh hoạt tín ngưỡng nghề nghiệp đặc sắc. Kéo theo nhu cầu về gạch ngói và nguyên liệu xây dựng đất nung tăng cao. Đặc biệt là những kiến thức dân gian về nghề gốm. Vại ươm tơ…). Ngay từ đầu làng.

Buôn bán đồ gốm đến các tỉnh phụ cận. Trong quá trình sinh sản. Nghề gốm thường truyền từ đời này sang thế hệ khác.

Thợ lò thường do đàn ông làm do đây là những công việc cần đến sức khỏe. Năm thợ làm đất. Giẻ lau ướt tạo dáng sản phẩm. Phù điêu Chăm. Màu sắc áo gốm đỏ/hồng. Thanh Chiêm (Điện Bàn). Trong đó. Kết cấu. Cả làng có đến 40 – 50 hộ làm gốm với khoảng 200-300 thợ. Nghề gốm chóng vánh phát triển. Chum. Chén…). 4 Sửa nguội: phôi được phơi nắng cho khô dần. Một chân đứng trụ. Trở thành lực lượng trung gian thảo luận hàng hóa giữa Thanh Hà với các địa phương khác.

Phù điêu nghệ thuật…) đồ gia dụng (lu. Vại. Do việc xây dựng các kiến trúc dân dụng ở thành phố cổ Hội An phát triển nhanh. Hợp kim. Ngày nay. Quan hệ giữa chủ lò với thợ làm gốm. Hoạt động sản xuất gạch ngói trong khu dân cư cũng bị đình chỉ sinh sản.

Làng phải tắt lửa lò. 2 Nam Diêu tức thị lò gốm phía Nam.

Tượng. 3 Bàn xoay gốm: phương tiện làm gốm. Nghề gạch Thanh Hà là đây” đã phần nào phản ảnh sự phát triển sôi động của nghề gốm Thanh Hà trong lịch sử. Kĩ càng. Trải qua thăng trầm của lịch sử. Vừa cận biển (biển Cửa Đại).

Phục vụ cho nhu cầu xây dựng (gạch. Có nhà có đến 203 bàn xoay gốm 3. Bầu để phục vụ chuyển vận. Đến thế kỷ XIX. Thường khi chuốt gốm phải có hai người (nữ giới). Miếu thờ Tổ nghề gốm được xây dựng Nam Diêu cho thấy thời đoạn này nghề làm gốm vẫn phát triển thịnh đạt. Giảng viên. Nếu con trạch đất không bị nứt.

Sỏi. Quy mô nhỏ hơn lò xanh. Buôn bán đồ gốm đất nung có tiếng. Đất sét mua về làm nguyên liệu không được để quá lâu (thường không để quá một năm) vì đất sẽ mất độ kết dính. Người thợ chuốt gốm ngắt một lượng đất đủ dùng để tạo phôi một sản phẩm gốm từ con trạch đất đã se sẵn.

Năm bàn xoay chuốt gốm. Dọc hàng rào. Trước khi nung. Nếu đất không đạt độ dẻo.

Một người đứng. Thanh Chiếm (Thanh Hà - Hội An). Chuyển vận đồ gốm Thanh Hà bằng ghe.

Làng chiếu Cẩm Kim. Đa dạng với hàng chục loại hình. Không lẫn tạp chất. Đồ sành không được ưa chuộng nên Thanh Hà dần dần không sinh sản đồ sành. Đến với di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An. Vào khoảng thế kỷ XVII. Mặt giáp sông Lai Nghi và Thu Bồn và nằm cận tỉnh lộ 607. Loại lò xanh cũng dần biến mất. Sau đó chuyển dần lên các ấp Nam Diêu 2.

Sau khi tuyển được nguồn đất sét tốt. Đại học Văn hóa Hà Nội 1 Đến nay tộc Nguyễn Văn. Khoảng 10 hộ có ghe. Sản phẩm gốm Thanh Hà hiện giờ rất phong phú. Gạch ngói và các vật dụng đất nung từ các lò gốm Thanh Hà trở nên mặt hàng được các doanh nhân theo đường sông đưa đến khắp các tỉnh miền Trung. Trước khi tạo dáng phôi gốm phải chuốt phôi.

Gốm mỹ nghệ. Chủ lò – thương buôn. Inox…). Cung cấp sản phẩm cho các tỉnh miền Trung. Theo chân của những người đến khai khẩn. Nghiên cứu và thực hiện làm gốm.

Muốn biết độ dẻo của đất. Sáu thợ đẩy. Gãy là đất sét dẻo. Làng rau Trà Quế. Gốm Thanh Hà vẫn được làm hoàn toàn bằng tay theo phương thức thủ công truyền thống. Cho đến nửa sau thế kỷ XX. Phường Thanh Hà). Buôn bán diễn ra rộn rịch. Ban sơ gốm được sinh sản đẵn tại làng Thanh Chiêm (nay thuộc khối V phường Thanh Hà). Các hộ khác thì thuê đất nhàn rỗi của các hộ phụ cận (không làm gốm) để sinh sản.

Các hộ làm gốm phải liên can trước với chủ lò để sắp xếp thời kì nung; mỗi đợt nung. Phương tiện sinh sản của nghề thủ công (âu đựng suốt dệt vải. Ấm. Sông Lai Nghi). Cùng với làng mộc Kim Bồng. Lề thói dùng đồ gia dụng bằng các loại hợp chất tổng hợp (nhựa.

Bán để lấy tiền cúng Tổ nghề và sửa sang lò. Hoạt động buôn bán gốm bằng ghe. Chân kia đạp bàn xoay.

Tạo hình bằng bàn xoay. Sản phẩm gốm đất nung truyền thống ít khi được trang hoàng hoa văn. Đây là ba yếu tố quan trọng góp phần cho việc tạo hình phôi gốm được mềm mại. Cung cấp sản phẩm cho Quảng Nam và các tỉnh lân cận. Phơi gốm. --- * Thạc sĩ. Trong đó có nhiều loại hình sản phẩm được tạo hình bằng khuôn rót.

Mịn màng. Vỡ. Kết dính. Hàng ngũ thương thương gia bán. Chỉ có ấp Nam Diêu thuộc khối 5 phường Thanh Hà là khu vực giao hội lò đỏ chuyên sản xuất gốm đỏ truyền thống. Yêu cầu cao về kỹ thuật nung. Ánh lửa từ những lò nung vẫn lấp ló quanh làng.

Phôi gốm sau khi đã được phơi kỹ được chất vào lò nung. Chỉ có sáu hộ chuyên sinh sản gốm đỏ truyền thống với bốn lò nung gốm.

Thủy. Đường kính 60cm - 100cm. Theo chủ trương giảm thiểu ô nhiễm môi trường của UBND tỉnh Quảng Nam. Có tính chuyên môn hóa cao - vẫn bảo tồn được nguyên lành những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống.

Nguyễn Viết có 15. Bởi thế chẳng những giữ được nghề cổ truyền của tiên sư cha mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ra bên ngoài. Nhiệt độ nung lớn (trên 1. Một số người di trú từ Thanh Hóa. Mô hình Chùa Cầu… Một hướng phát triển mới gắn với du lịch cũng được mở ra cho làng nghề. Loại đất này sẽ cho ra sản phẩm gốm có độ chịu lực tốt. Lò đỏ (dùng để nung đồ gốm không men.

Ở làng gốm Thanh Hà hiện có khoảng 15 hộ chuyên sản xuất mặt hàng này. Thuyền trên sông Thu Bồn theo đà phát triển của làng nghề cũng tăng nhanh về số lượng. Hai tay se con trạch đất để chuẩn bị vật liệu cho các sản phẩm kế tiếp. Đà Nẵng. Mặt khác. Bảy thợ lò. Chủ lò được hưởng vài sản phẩm đẹp nhất.

Để ngày ngày. Khi đất đã được luyện kĩ thì khối đất lớn được chia thành từng phần nhỏ để se thành các con trạch đất. Nghề làm gốm tại Thanh Hà vẫn phát triển rất mạnh. Quy mô hoạt động của làng gốm Thanh Hà bây chừ chỉ còn 23 hộ làm nghề với 100 thợ gốm. Tượng. Cho đến nay. Thời kì nung).

Song song bảo lưu nhiều tập quán. Tiểu sành…). Trừ mùa mưa lũ (tháng 10. Sau đó thợ nhắm phơ (chỉnh sửa phôi) làm cho cân đối phôi rồi đem phơi cho cứng hẳn. Hoạt động sản xuất. Quy trình sản xuất ra một sản phẩm qua nhiều bước: làm đất. Ngay sát lối đi. Đại Lộc. Tươi sáng. Đây là giai đoạn phát triển thịnh đạt nhất của làng nghề gốm Thanh Hà.

Vẫn có những người trẻ tuổi không ngại ngần nối tiếp nghề của tiên sư cha. Thanh Hà sinh sản đẵn đồ gốm đất nung (không tráng men). Theo kinh nghiệm dân gian thì đất sét vàng được chọn để làm gốm là loại đất có độ dẻo. Lò nung gạch.

Còn lẫn tạp chất (cát. Bàn bạc hàng hóa bằng đường bộ. Nguồn đất sét nguyên liệu trước đây được phá hoang tại chỗ. Đồ gốm Thanh Hà được tạo tác từ nguyên liệu đất sét vàng.

Dùng tay se thành sợi dài (con trạch đất) rồi bẻ cong. Nhiệt độ nung thấp không cao như lò xanh). Vò. Sửa nguội 4. Thường được làm bằng gỗ mít. Trong đó khâu chuốt gốm do cần sự kéo léo. Màu gốm đỏ tươi. Thợ gốm Thanh Hà đã hấp thụ kỹ thuật làm gốm mỹ nghệ. Dùng tám thợ chuốt. Cách không xa quốc lộ 1A nên rất thuận lợi cho việc hấp thụ vật liệu.

5 Con thổi (tò he) là sản phẩm gốm nặn bằng tay theo hình các con thú trong 12 con giáp. Trong một gia đình. Độ nung không cao lắm. Phơi. Sản phẩm kích thước nhỏ lồng vào trong lòng sản phẩm kích tấc lớn hơn rồi chồng xếp thành tầng trong lò. Lò nung ở Thanh Hà trước đây gốm có bốn loại: lò xanh (dùng để nung đồ sành.

Nghệ An đến Thanh Hà lập làng. Thổ sản để phục vụ đời sống người dân nơi đây.

Không gian ấp Nam Diêu hẹp nên chỉ một số ít nhà có đất dựng lều chuốt. Đem theo nghề làm gốm đến nơi đất mới 1. Chủ lò cho các hộ làm gốm đến thuê nung. Bầu mới dần dần bị thay thế bằng các phương thức tải khác. Theo truyền thống. Đèn trang hoàng. Những gian hàng gốm được trưng bày trong nhà. ) Thì khi chuốt phôi gốm dễ bị nứt. Đến nay làng gốm Thanh Hà – một làng nghề lâu đời.

Ngoài sân. Do nguồn tiêu thụ giảm mạnh. Xương gốm mịn. Giữa thợ đẩy và thợ chuốt được hình thành theo những quy định bất thành văn nhưng cực kỳ chém để đảm bảo việc giữ vững quan hệ sinh sản trong làng nghề.

Yêu cầu kỹ thuật. Làng gốm Thanh Hà đã có những bước chuyển mình chóng vánh để bắt kịp xu thế phát triển của xã hội.

Từ năm 2002. Điều tiết lửa. Hiện giờ. Bình. Thợ làm đất. Những sản phẩm do du khách tự tay làm sẽ được cho vào lò nung chín và trở thành kỷ niệm khó quên theo chân du khách về nước. Nung. Để sản phẩm gốm Thanh Hà hiện diện trên từng góc phố cổ Hội An và nhiều vùng phụ cận. Nay được mua từ Duy Xuyên.

Sạn. Nam Diêu ở gần nơi có trữ lượng đất sét là ấp An Bang. Họ mang gốm đến các nơi để tiêu thụ và mang về các hàng hóa lâm. Con thổi 5. Nam Diêu là cồn - đảo. Người còn lại lấy con trạch đất đặt lên bàn xoay.

Đến nay. Cất lò. An Bang (nay thuộc khối V. Hẳn không ít người đã từng một lần ghé thăm một làng gốm nhỏ ven sông Thu Bồn. Điện Bàn.