Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - tầng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai. Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên cách tân lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lịch trình cụ thể thì công cuộc canh tân giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các thế hệ người Việt trong ngày mai.
Thứ năm, thiếu tính liên thông về kiến thức. Học trò Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những tri thức căn bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng đích đào tạo nguồn nhân lực của giang sơn chứ không phải là sự chắp vá, vay hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.
Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp tục phải hy vọng! nền tảng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn mực? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu trả lời chính xác. Thế nhưng thay đổi ra sao, trên nền tảng nào, thực hành vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề. Thứ sáu, việc chọn lựa khối lượng và thuộc tính các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tại… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng nhấn: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học sinh mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là khôn xiết cần thiết.
Kinh nghiệm từ những lần cải cách giáo dục trong lịch sử cũng như những lần thay đổi SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi". Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân chiến thắng tiến về Thủ đô", để hợp nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cách tân giáo dục mới được tiến hành.
Vì sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham dự của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã cương trực nêu lên 6 vấn đề của SGK bây chừ.
Thứ tư, SGK hiện thời thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình. Theo Phó chủ toạ Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của thầy và cộng đồng".
Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên tri thức bị phân khúc, tách rời, đứt quãng.
Tuy nhiên, sau một thời kì "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học sinh, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho tầng lớp. Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc cách tân sư phạm. Với một chương trình giáo dục không còn thích hợp với tầng lớp hiện đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì dĩ nhiên phải đổi thay.
"Muốn thắng trong kinh tế, trước hết phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ đích giáo dục. Lần cải cách SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hành một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dạy thể nghiệm rồi mới làm SGK chính thức.
Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Trong một cuộc đáp phỏng vấn báo chí, GS. Những cuốn sách giáo khoa trước tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. TS Trần hoá nhi, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chằm chặp nghĩ đến chuyện viết lại SGK.
Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh khôn cùng khó khăn, nhưng nền tảng kiến thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều anh tài phục vụ sự nghiệp phát triển giang sơn.
Đặc biệt, phải xác định rõ mục tiêu giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn chung cuộc trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Để điều đó trở thành hiện thực thì không chỉ tạo lập cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải thay đổi tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cải cách giáo dục đến với học sinh).
Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về tri thức nhưng càng ngày càng cách biệt thực tiễn và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học trò; nội dung thay đổi và cải cách quá nhiều trong thời gian ngắn; khâu tổ chức soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khuyết thiếu hoặc quá thừa không chỉ làm hoang toàng tiền bạc, thời gian mà còn đặt lên vai học sinh, xuân đường những áp lực không đáng có.
Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến bất tận của kiến thức, không thể nối chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy tri thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập nghĩ suy và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng bổn phận với giang sơn, với dân tộc.
Không ít kinh nghiệm soạn SGK của nước ngoài đã được tiếp thụ và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã dự biên soạn và thẩm định bộ SGK này. Nếu chỉ quan tâm đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục nhân cách, lối sống với giáo dục kiến thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hiện.
Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều đời trong một gia đình gìn giữ, chuyền tay nhau học tập. Nếu không có những người thầy nhiệt huyết, trí óc sẽ không có những nhân cách, những anh tài cho đất nước.
Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khơi gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống tầng lớp. Tiếp đó, sau 4 năm phóng thích miền Nam thống nhất tổ quốc, năm 1979, nhằm hợp nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cách tân giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ biến 12 năm.
Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ biến 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Mấu chốt của giáo dục là dạy người và dạy làm người. Trong kháng chiến chống Pháp, với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục ăn nhập với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc canh tân giáo dục trước nhất.
Ba cuộc cách tân giáo dục phổ biến đã làm tròn sứ mạng trong những thời đoạn lịch sử nhất mực. Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình nhận thức của học trò, chứa đựng hàm lượng cơ bản nhất về tri thức và là nền móng của tư duy sau này của đời người. Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều tri thức, kể cả thiếu một số môn mấu chốt về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp tri thức, được biên soạn với mục đích dạy và học. Thứ hai, SGK hiện định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc tri thức (tỉ dụ, ngoại ngữ có vai trò quan yếu trong đời sống hiện tại nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).
Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là yếu tố để chấn hưng văn hóa, giữ giàng và phát huy các giá trị Việt Nam.
Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận giờ. Thứ ba, những tri thức dùng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, vì thế bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối.
Chúng ta đang giáo dục con người theo cách bị động. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ biến.
Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần cải cách giáo dục phổ thông là một lần… thay đổi sách giáo khoa.