Như Hà Nội, dù là thủ đô của cả nước, cũng là nơi hội tụ khá đông các di tích (với trên 5

Về điều này, KTS Lê Thành Vinh tỏ tường: Khi đã đưa ra được quy định như trên thì cần có những bước tiến hành thật đồng bộ. 000 di tích, 42,6% trong số đó đã được xếp hạng di tích quốc gia và cấp tỉnh) nhưng ngay đến đội ngũ làm thuê tác quản lý di tích cũng rất thiếu và yếu về chuyên môn.
Chứng chỉ hành nghề lập quy hoạch di tích được cấp cho cá nhân chủ nghĩa là người đã có chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, đã qua lớp bổ dưỡng kiến thức bảo quản, sửa chữa, bình phục di tích do viện nghiên cứu, trường đại học có chức năng đào tạo chuyên ngành xây dựng, kiến trúc hoặc liên hệ đến hoạt động bảo quản, sửa chữa, phục hồi di tích tổ chức; đã tham gia tham vấn lập ít nhất 3 quy hoạch di tích hoặc 5 dự án sửa sang di tích đã được duyệt y.
Sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo như thế này, người học sẽ được tham gia Thực tế và được cấp chứng chỉ khi đạt đề nghị. Ngoài ra, chứng chỉ hành nghề với các chuyên môn như lập dự án sửa sang di tích, mỏng kinh tế - kỹ thuật tu chỉnh di tích, thiết kế sửa sang di tích; Hành nghề thi công tôn tạo di tích; Giám sát thi công sửa chữa di tích cũng có những yêu cầu tương đương.
Có tới 600 di tích đang xuống cấp nghiêm trọng cần phải sửa chữa nhưng chỉ tiêu bố trí nhân sự lại hạn chế, dẫn tới tình trạng không có người làm. Nhưng sắp tới, để đáp ứng cao hơn nhu cầu về sửa sang, tu tạo di tích, kiên cố đối tượng học sẽ không chỉ dừng lại ở đây, sẽ cần phải hướng tới đầu vào là những sinh viên vừa tốt nghiệp trường kiến trúc. Tuy nhiên, không ít người lo ngại về việc chạy đua hay bằng những cách ngoài chuyên môn để có được tấm thẻ này.
Dù rằng thời kì qua, Cục Di sản văn hóa đã quan hoài tới việc tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ các địa phương, nhưng theo GS Lưu Trần Tiêu, những tri thức cán bộ thu nhận được cũng như ý kiến đóng góp của họ đã không được áp dụng tại địa phương, dẫn tới tình trạng “học rồi để đấy”.
Người tham dự đều là những kiến trúc sư, kỹ sư ít phải có chí ít 3 năm hoạt động trong lĩnh vực trùng tu, tả qua kê khai và công nhận các công trình đã làm. Với cách làm này, hy vọng rằng tình trạng “loạn” giấy phép sẽ được loại trừ.
Phải chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm thuê tác di sản Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Đặng Thị Bích Liên, công tác quản lý và phát huy giá trị của di tích thời gian qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, gây không ít bức xúc trong dư luận và ảnh hưởng nghiêm trọng tới giá trị lịch sử, văn hóa của di tích. Nhưng theo ông Vinh thì để làm được điều này cần một chương trình dài hơi.
Công tác quản lý quốc gia cũng ngày một được tăng cường. Theo Thông tư, chỉ có những tổ chức, cá nhân có đủ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ, năng lực, thể hiện qua chứng chỉ hành nghề và chứng nhận hành nghề. Thời kì qua, phần lớn đội ngũ thực hành công tác này đều là những thợ xây thường nhật, không được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ tôn tạo di tích.
Ví dụ: “Điều kiện người được cấp chứng chỉ hành nghề phải duyệt đào tạo, thế thì phải quản lý được chương trình đào tạo, cũng như đội ngũ những người giảng sư thực hành chương trình đào tạo đó”. Thực tế thời gian qua, Viện bảo tàng di tích cũng đã có những lớp đào tạo cho những cá nhân về công tác bảo tàng, sửa sang di tích.
Viện cũng đang lên chương trình để áp dụng trong thời gian tới. Và chỉ những người thực sự có chuyên môn mới có thể tham dự vào công tác trùng tu di tích. Dư luận không khỏi “bàng hoàng” trước thực trạng nhiều di tích sau khi được trùng tu bỗng trở nên “hoành tráng, cao to hơn”, làm mất đi nét đẹp nguyên thủy của nó.
Họ chỉ làm theo chỉ đạo của chủ đầu tư như một cái máy đúng nghĩa. Thêm nữa, nước ta cũng chưa có một đơn vị như dài nào mở ra chuyên ngành này, nên chất lượng của đơn vị cấp chứng chỉ cũng là một vấn đề đáng đặt câu hỏi. TS Lưu Trần Tiêu - chủ toạ Hội đồng Di sản quốc gia đã từng nhấn mạnh vào việc phải chuyên nghiệp hóa hàng ngũ làm thuê tác di sản từ Trung ương tới địa phương.
Nên, với việc Thông tư 18 có hiệu lực, tình trạng “mạnh ai nấy làm” kiểu này được kỳ vọng sẽ chấm dứt.
Riêng về mặt đội ngũ làm công tác trùng tu có hai vấn đề: Một là những đơn vị, tổ chức dự hoàn toàn không có khả năng về vấn đề trùng tu di tích. Ai được phép hành nghề? Di tích chính là những trang sử sống mang dấu ấn về sự biến động, thăng trầm của nhiều thời kỳ lịch sử, song song cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành kho tàng di sản văn hóa của dân tộc.
Nói về điều này, KTS Lê Thành Vinh - Viện trưởng Viện bảo tàng di tích cho rằng: “Hậu quả của việc trùng tu di tích không được bảo đảm có nhiều nguyên do.
Theo ông Trương Minh Tiến, Phó giám đốc Sở VH-TT&DL Hà Nội, Hà Nội, có đa dạng về chất lượng, phong phú về loại hình di tích nhưng cũng có những nơi không có cán bộ chuyên môn, không được đào tạo bài bản về công tác này. Ngay đến đơn vị tham gia cũng không đủ trình độ để thẩm định về chất lượng công tác sang sửa.
Hai là hàng ngũ thực hiện không có khả năng và chưa có kinh nghiệm”. Minh Anh. Có thể nhiều cơ sở cùng tham gia đào tạo cho những cá nhân về tri thức kỹ năng bảo tàng trùng tu di tích, nhưng cấp thiết phải có giáo trình giảng dạy chuẩn hóa, có được giảng sư đủ kinh nghiệm, tri thức, lâu năm trong nghề thì mới mong đảm bảo chất lượng đào tạo.
Còn theo KTS Lê Thành Vinh, việc đề nghị phải có chứng chỉ và chứng nhận hành nghề như thế này sẽ loại trừ được những người không có khả năng tham dự vào công tác sang sửa di tích. Thời kì qua, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên hệ đến lĩnh vực này được từng bước hoàn thiện. Khắc phục tận gốc? Trong nhiều cuộc hội thảo trước đây, GS.
Viện sẽ đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa và nâng cao nghiệp vụ cho họ. Với một hệ thống di tích dày đặc (khoảng 4 vạn di tích) ở nước ta hiện thời thì việc quản lý nhằm bảo vệ và phát huy có hiệu quả giá trị của di tích trong cuộc sống hiện đại là rất quan trọng. Có thể kể đến trường hợp như di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), Thành nhà Mạc (Tuyên Quang), Đàn Nam Giao - Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa), hay di tích đền Đô, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa Trăm Gian (Hà Nội), đình Ngu Nhuế (Hưng Yên)… Có nhiều căn do dẫn tới tình trạng này, nhưng dưới giác độ chuyên môn, các nhà nghiên cứu cho rằng, đó một phần do hàng ngũ làm thuê tác trùng tu di tích ở nước ta không có chuyên môn và cũng thiếu sự chuyên nghiệp.